15 năm, 3 mô hình
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Bắc Ninh kỷ niệm ngày truyền thống Văn phòng |
Việc tách Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố có lẽ là chuyện đương nhiên. Văn phòng Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố tái lập theo tinh thần của Luật Tổ chức QH; Luật Tổ chức chính quyền địa phương là căn cứ để xây dựng, kiện toàn Văn phòng phục vụ HĐND các cấp. Đối với Văn phòng phục vụ HĐND, trước hết cần tổng kết công tác của Văn phòng HĐND và UBND kể từ khi Luật Tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi) ban hành từ năm 2003 đến nay. Trong đó, đi sâu đánh giá hoạt động của Văn phòng phục vụ HĐND các cấp với sự tham gia của đại diện Thường trực, lãnh đạo các ban và Văn phòng các cấp HĐND ở tất cả các vùng miền, khu vực - những người trong cuộc, hơn ai hết hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của công tác này. Tổng kết phải làm rõ được kết quả, ưu điểm và đặc biệt là phải chỉ ra những tồn tại, khó khăn, bất cập và nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất hướng giải quyết cùng các kiến nghị xác đáng, cụ thể trong công tác Văn phòng phục vụ HĐND từng cấp.
|
Cùng với sự khẳng định về HĐND, công tác Văn phòng thời gian qua cũng có cố gắng, tiến bộ và phát triển. Nhiều tỉnh, thành phố đã tìm tòi, đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động và đã mang lại những kết quả tốt; nhiều hoạt động của Văn phòng trong tham mưu, phục vụ đã thành nền nếp, tạo được nền tảng, căn cứ và nhiều kinh nghiệm quý ở từng địa phương, đơn vị. Đây là thực tế cần ghi nhận.
Nhưng cũng phải nói rằng, công tác Văn phòng tham mưu, phục vụ HĐND nhìn chung chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh, hiện còn những khó khăn, bất cập chưa được khắc phục; nhiều mặt chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao của Văn phòng và điều kiện thực tế của mỗi nơi. Nếu tính từ thời điểm Nghị định số 123 ngày 27.3.2001 của Chính phủ ban hành đến Nghị quyết số 416 ngày 25.9.2003 của UBTVQH; Nghị định số 133 ngày 29.6.2004 của Chính phủ đến Nghị quyết số 545 ngày 11.12.2007 của UBTVQH, gần 15 năm qua đã có 3 mô hình Văn phòng HĐND cấp tỉnh.
Thiếu sự thống nhất về cơ cấu tổ chức, biên chế của Văn phòng: Hiện nay trong phạm vi toàn quốc, số lượng các phòng, đơn vị thuộc Văn phòng không thống nhất. Nơi có 3 phòng theo tinh thần Nghị quyết 545 của UBTVQH, nơi có 4, 5 phòng, nơi có 6, 7 phòng và không ít nơi thành lập Trung tâm Thông tin là đơn vị sự nghiệp thuộc Văn phòng. Tình trạng đó đã dẫn đến việc bố trí biên chế Văn phòng các tỉnh, thành phố nhiều nơi có sự cách biệt khá xa. Không ít Văn phòng, số lượng chuyên viên phục vụ trực tiếp một ban HĐND cấp tỉnh quá mỏng, có nơi, có lúc chỉ 1 hoặc 2 người.
Cơ chế quản lý điều hành, tham mưu, phục vụ, phối hợp hoạt động của Văn phòng còn chung chung, thiếu sự hợp lý và cụ thể. Thực tế, tính chất công việc của Văn phòng phục vụ các cơ quan dân cử có nhiều nét chung và đặc thù, cần có quan hệ, phối hợp thường xuyên và chặt chẽ, nhưng không có các quy định mang tính pháp lý để hoạt động. Ngay trong nội bộ, việc quản lý, điều hành chuyên viên giúp việc các ban hoặc phối hợp công tác giữa Văn phòng với các ban HĐND cũng có vướng mắc nhất định, vì thiếu sự phân định về thẩm quyền. Phòng Công tác QH, tuy nằm trong Văn phòng, nhưng mọi thứ hầu như đều “riêng”... khó tạo sự hài hòa, thống nhất cao trong Văn phòng.
Thống nhất và chuyên nghiệp
Về Văn phòng HĐND cấp tỉnh, cần quy định rõ là cơ quan ngang sở, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế, công tác của Thường trực HĐND tỉnh; sự chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Văn phòng QH và Văn phòng Chính phủ... Xác định đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng. Nhiệm vụ của Văn phòng phải trên cơ sở gắn kết với chức năng, nhiệm vụ của HĐND, các ban, tổ và đại biểu HĐND cấp tỉnh. Văn phòng có Quy chế làm việc do Chánh Văn phòng ký ban hành sau khi xin ý kiến của các ban và Thường trực HĐND.
Mô hình, cơ cấu, tổ chức, bộ máy Văn phòng cần thống nhất giữa các tỉnh, thành phố; bảo đảm tính đồng bộ, chuyên sâu, chuyên nghiệp. Nguyên tắc hoạt động phải dân chủ, công khai, minh bạch. Cơ chế điều hành cụ thể, rõ ràng, đề cao trách nhiệm cá nhân. Văn phòng có Chánh Văn phòng và không quá 3 Phó chánh Văn phòng, do Chủ tịch HĐND tỉnh, thành phố bổ nhiệm, miễn nhiệm… (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh không quá 4 Phó chánh Văn phòng). Phòng có Trưởng phòng và không quá 2 Phó trưởng phòng, do Chánh Văn phòng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi xin ý kiến của Thường trực HĐND. Trưởng phòng điều hành công việc của phòng; chuyên viên của các phòng được làm việc trực tiếp với Chánh Văn phòng, Phó chánh Văn phòng, Trưởng, Phó các ban, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND khi được yêu cầu.
Chánh Văn phòng là người đứng đầu Văn phòng, chịu trách nhiệm trước Thường trực HĐND và trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng. Phó chánh Văn phòng được Chánh Văn phòng phân công theo dõi, phụ trách từng khối công việc, từng phòng, chịu trách nhiệm trước Chánh Văn phòng và pháp luật đối với công việc được phân công. Việc chỉ đạo các mặt công tác, quản lý, tuyển chọn, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng, Phó các phòng phục vụ chung và Trung tâm Thông tin do Chánh Văn phòng quyết định. Lãnh đạo các ban HĐND chỉ đạo các mặt công tác của phòng trực tiếp giúp việc. Đồng thời, có trách nhiệm phối hợp với Lãnh đạo Văn phòng trong việc quản lý, thực hiện chế độ, chính sách, tuyển chọn, phân công cán bộ, công chức, bổ nhiệm, bãi nhiệm, cách chức Trưởng, Phó phòng trực tiếp giúp việc Ban; Chánh Văn phòng ra quyết định.
HĐND quyết định biên chế và kinh phí
Biên chế của Văn phòng được xác định cụ thể trên cơ sở phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và số lượng các ban, số lượng đại biểu HĐND được bầu và do Thường trực HĐND quyết định hằng năm sau khi thống nhất với UBND tỉnh, thành phố. Biên chế của từng phòng cũng cần quy định mức tối thiểu là 3 người để các địa phương vận dụng. Chủ tịch, Phó chủ tịch, Trưởng, Phó các ban HĐND hoạt động chuyên trách, không tính vào chỉ tiêu biên chế của Văn phòng. Như thế, tổng biên chế của Văn phòng có khoảng: 30 - 35 công chức, 5 viên chức và một số hợp đồng theo quy định tại Nghị định 68 của Chính phủ. Số biên chế này được xắp xếp theo tinh thần mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, do vậy các tỉnh, thành phố có trách nhiệm xem xét, điều chỉnh, quyết định cụ thể trong phạm vi địa phương mình mà không bị chi phối bởi các quy định hiện hành về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Văn phòng HĐND cấp tỉnh cần được tổ chức, có cơ chế và điều kiện, phương tiện hoạt động... tương xứng với Văn phòng UBND cấp tỉnh.
Kinh phí Văn phòng nằm trong kinh phí của HĐND, do HĐND quyết định hằng năm. Kinh phí của Văn phòng được tính trên đầu biên chế của Văn phòng - như các sở, ngành thuộc tỉnh. Kinh phí hoạt động của HĐND bố trí trên cơ sở các hoạt động của HĐND, Thường trực, các ban, các tổ, các đại biểu HĐND và các hoạt động đối ngoại với tư cách là một trong ba cơ quan đầu não, đứng đầu cấp tỉnh, thành phố (Tỉnh ủy, Thành ủy - HĐND - UBND). Căn cứ vào kinh phí được phân bổ hằng năm, Thường trực HĐND có thể giao kinh phí cho các ban HĐND để tăng tính chủ động và trách nhiệm trong quá trình hoạt động. Thường trực HĐND chỉ đạo sử dụng kinh phí của HĐND, đồng chí Phó chủ tịch HĐND phụ trách Văn phòng làm chủ tài khoản và có thể ủy quyền cho Chánh Văn phòng, Phó chánh Văn phòng thực hiện một số khoản chi hoặc lĩnh vực hoạt động.
Văn phòng HĐND cấp tỉnh nên có 5 phòng và 1 trung tâm, cụ thể: Phòng Tổng hợp - Dân nguyện; Phòng Kinh tế - Ngân sách: Phòng Văn hóa - Xã hội: Phòng Pháp chế; Phòng Hành chính - Tổ chức - Quản trị. Trung tâm Thông tin. HĐND các tỉnh, thành phố có Ban Đô thị hoặc Ban Dân tộc, được thành lập thêm Phòng Đô thị hoặc Phòng Dân tộc trực tiếp giúp việc cho ban. Các phòng và Trung tâm Thông tin có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, trực tiếp tham mưu, giúp việc theo tinh thần trên; đồng thời, có trách nhiệm phối hợp thực hiện các nhiệm vụ liên quan theo quy định của pháp luật, Quy chế hoạt động của HĐND và phân công của Thường trực HĐND, lãnh đạo Văn phòng.
|