Vào dịp giỗ Tổ, hàng triệu con dân nước Việt hướng về Mộ Tổ thắp nén nhang thơm tri ân công đức Tổ tiên (Ảnh: Thành Trung)
Từ sự sùng bái thủ lĩnh của người Việt cổ đã hình thành nên biểu tượng Hùng vương. Chữ "Hùng" trong Hùng Vương là chữ Hán phiên âm từ ngôn ngữ Việt cổ, chỉ vị khun/ thủ lĩnh/ người cầm đầu của cộng đồng người Việt" (2). Các Vua Hùng đã để lại cho thế hệ con cháu một gia tài quý báu, một lãnh thổ màu mỡ vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam với nghề trồng lúa nước của cư dân nông nghiệp, một nền văn hóa riêng biệt giàu bản sắc. Biểu tượng Vua Hùng đã trở thành động lực tinh thần to lớn có sức cổ vũ mạnh mẽ đối với người dân Đất Việt. Sự tôn sùng của người Việt vào các vị thủ lĩnh, bậc tiền nhân đã có công lập nước, kết nối với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên để hình thành nên tín ngưỡng thờ thủ lĩnh có công xây dựng nền độc lập dân tộc. Hùng Vương là biểu tượng đặc sắc nhất về một vị thủ lĩnh có công sáng lập nên nhà nước Văn Lang - Nhà nước sơ khai đầu tiên của dân tộc. Biểu tượng đó trải qua các thời kỳ lịch sử tồn tại và thẩm thấu trong đời sống văn hóa bằng các huyền thoại, truyền thuyết... cùng quá trình xây dựng các di tích có liên quan đến Hùng Vương, quy tụ tất cả các cộng đồng, các tộc người sinh sống như là một sự cố kết cộng đồng, đoàn kết cùng nhau hướng về đất Tổ.
Trong thực tế mỗi quốc gia, đặc biệt là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo đều xây dựng cho mình một biểu tượng nhằm tập hợp và quy tụ, củng cố khối đoàn kết để bảo tồn và phát triển. Với người Việt Nam dù có hàng trăm dòng họ, nghìn cái tên khác nhau, nhưng tất cả đều cùng chung một bọc, một thủy tổ mà ra. Tinh thần dân tộc, nghĩa "đồng bào", coi nhau như anh em được khẳng định không chỉ cùng một huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ mà còn có mối quan hệ mang tính chất thần bí cùng sinh ra từ bọc trăm trứng. Chính trong tâm thức thần bí ấy mà mối liên hệ tình đoàn kết dân tộc sẽ mạnh mẽ hơn, bền chặt hơn. Biểu tượng đó đã thấm vào máu thịt của con người một cách tự nhiên theo con đường văn hóa tâm linh đã kết tinh bằng một biểu tượng cụ thể là Hùng Vương.
Điểm lại tiến trình lịch sử mấy nghìn năm dựng nước, thế kỷ thứ III TCN tương truyền rằng Thục Phán dựng nước Âu Lạc - đó là thời kỳ tiếp nối thời đại các Vua Hùng lập nước Văn Lang - đã dựng Cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng “Nguyện có trời cao lồng lộng soi xét không bao giờ sai, nước Nam sẽ trường tồn, miếu thờ Hùng Vương sẽ còn mãi mãi...”.
Đất nước trải qua nghìn năm Bắc thuộc, trong đêm trường tăm tối của cảnh nước mất nhà tan, hình tượng Vua Hùng, ý thức về con cháu Rồng Tiên, tình đồng bào vẫn nung nấu thầm lặng trong từng con người, để bảo vệ sự tồn vong của cộng đồng trước âm mưu thống trị, đồng hóa của ngoại bang, đồng thời không quên cội nguồn, phong tục tập quán bắt đầu từ thời các Vua Hùng. Năm 40 - 43 khi dấy binh khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã đọc lời thề "Sông Hát" như một lời hiệu triệu:
“Một xin rửa sạch quốc thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa Họ Hùng”.
Đó là tiếng sấm trong đêm dông báo hiệu mùa xuân của đất nước, là chứa chất hơn một nghìn năm nung nấu ý trí báo quốc, phục dựng sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng. Sức mạnh cội nguồn đã động viên cổ vũ con cháu Vua Hùng quyết tâm gìn giữ giang sơn qua các cuộc chiến tranh: 2 lần thắng giặc Tống (981,1077), 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông (1258, 1285, 1287, 1288), đất nước và cư dân Việt vẫn vững vàng phát triển và thịnh vượng. Động lực tinh thần mạnh mẽ xuất phát từ ý thức cội nguồn, về chủ quyền quốc gia và nền văn hiến dân tộc. Nguyễn Trãi đã khẳng định cội nguồn Văn Lang và dõng dạc tuyên bố trong Bình Ngô Đại Cáo:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác...”
Hướng về Vua Hùng, phát huy sự nghiệp mở nước của tổ tiên không chỉ là đạo lý trong sáng, nghĩa vụ cao cả của con cháu Lạc Hồng, bởi Vua Hùng trong tâm trí mỗi người như một biểu tượng thiêng liêng giúp con cháu vượt qua mọi hiểm nguy với tâm niệm:
“Cháu chắt còn, tổ tông hãy còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi
Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vững bền lâu”
Trong nhiều thế kỷ, Đền Hùng - trung tâm tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với sự tồn tại hiển nhiên của mình như một niềm tin của dân tộc ta vào truyền thống lịch sử. Dân tộc ta đã tìm thấy ở Đền Hùng một huyệt đạo để hưng khởi tinh thần dân tộc, là chỗ giao thoa của hai mạch dòng truyền thống và văn hóa Việt Nam. Mùa xuân năm 1941 Nguyễn Ái Quốc đã viết những vần thơ thể hiện tinh thần yêu nước và tín ngưỡng thờ tổ tiên của truyền thống lịch sử dân tộc trong bài Lịch sử nước ta:
“Hồng Bàng là Tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
...........
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng” (3)
Cách mạng tháng Tám thành công, đúng vào lễ giỗ Tổ mùa xuân đầu tiên của chính quyền cách mạng, tháng 3 năm 1946 “Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã lên tận Đền Hùng để thay mặt cho nhà nước cáo Tổ. Các vị cao niên thuật lại rằng: Cụ Huỳnh đã làm lễ dâng hương cùng một tấm bản đồ Tổ quốc và một thanh gươm để cáo với tổ tiên về vận nước vừa thoát khỏi ách nô lệ nhưng đang đứng trước họa xâm lăng” (4).
Đất nước nhiều phen binh lửa, văn hóa dân tộc với tín ngưỡng thờ tổ tiên - các Vua Hùng - là đạo lý " Cội nguồn" trở thành điều sống còn, tồn vong của dân tộc từ bao đời nay. Tư tưởng văn hóa - tín ngưỡng dân tộc đã trở thành niềm tự hào, niềm tin vững chắc, nguồn cổ vũ lớn lao đối với nhân dân cả nước như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm Đền Hùng:
“Các Vua Hùng có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Lời dạy của Bác chính là để ca ngợi quyết tâm giữ nước trong thời đại mới, từ đó khơi dậy những tình cảm thiêng liêng của dân tộc đối với các Vua Hùng, từ truyền thống lịch sử tạo ra những điều bất diệt, tạo nên sức mạnh và nguồn sinh lực mới cho cuộc sống, để dân tộc hoàn thành nhiệm vụ của cách mạng, đi đến đích cuối cùng. Đất Tổ Vua Hùng luôn là niềm tin, là biểu tượng của đồng bào ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một". Nhờ sự trỗi dậy, sự đoàn kết của sức mạnh dân tộc, non sông đã liền một dải sau đại thắng mùa xuân năm 1975, những người con ưu tú của cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ xúc động đã ghi lại trong sổ vàng lưu niệm: “Về với đất Tổ Hùng Vương! Về với cội nguồn dân tộc, lòng biết bao rạo rực và xúc động. Hôm nay, chúng con muốn thưa với Tổ tiên và Bác Hồ rằng: Vâng lời Người, miền Nam đã sắt son chung thủy trở về với cội nguồn…”.
Ngày nay nước ta trên con đường hội nhập và phát triển, con cháu Rồng Tiên luôn mở rộng đón nhận và tiếp thu, hội nhập những tinh hoa của nhân loại để bồi đắp cho di sản do tổ tiên để ngày càng bền vững. Các thế hệ con dân đất Việt luôn hướng về cội nguồn, tìm sức mạnh ở cội nguồn, như một động lực tinh thần động viên cổ vũ tiến về tương lai:
“Lịch sử triều đại các Vua Hùng đã tạo ra cội nguồn trong hành trình dân tộc Việt Nam, khởi đầu cho một quốc gia mãi cho đến thế hệ Hồ Chí Minh đã thực sự dạng danh đất nước Tiên Rồng.
Các em hết sức tự hào về cội nguồn lịch sử và truyền thống lâu đời, tinh thần bất khuất quả cảm của một dân tộc đã có hàng ngàn năm văn hiến. Các em sẽ tự hào bởi dân tộc Việt Nam. Hai tiếng Hùng Vương sẽ đi theo các em tới khắp nơi trên thế giới để giúp các em mãi mãi đoàn kết bên nhau và luôn tự hào hướng về cội nguồn đất nước”.(5)
-------------------
1. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) Văn hóa Việt Nam những hướng tiếp cận liên ngành Nxb Văn học H . 2015 tr 963
2. Lê Tư Lành (1968) Văn thơ vịnh Đền Hùng, trong Khảo cổ học số 4, Hà Nội tr 179, 180
3. Hồ chí Minh toàn tập (1995) XB lần thứ 2 NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
4. Dương Trung Quốc (2000) Tổ tiên rực rỡ - anh em thuận hòa, Tạp chí cộng sản số 8 Hà nội tr 14
5. Sổ vàng lưu niệm tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng của Đoàn đại biểu thanh niên, sinh viên kiều bào ở khắp nơi trên thế giới về tham dự trại hè Việt Nam năm 2011.
Nguồn Cổng GTĐT