Đoàn ĐBQH tỉnh thảo luận tại Tổ
Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008 là văn bản pháp luật cao nhất lần đầu tiên được ban hành ở Việt Nam về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Qua hơn 7 năm triển khai thực hiện, công tác quản lý, sử dụng tài sản nhà nước của nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng: Quy mô tài sản phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, y tế, giáo dục, văn hóa - thể thao và các hoạt động sự nghiệp khác đã tăng lên đáng kể; hiệu quả sử dụng được nâng lên và dần trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội; tình trạng lãng phí, thất thoát trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước dần được khắc phục...Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế chủ yếu: Cơ chế quản lý tài sản nhà nước còn phân tán, được điều chỉnh bởi nhiều luật khác nhau, chưa có luật chung để quy định những nguyên tắc thống nhất trong quản lý, sử dụng, khai thác tài sản; việc quản lý, sử dụng một số loại tài sản nhà nước chưa được quan tâm đúng mức, chậm đổi mới, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý tài chính; các cơ quan quản lý chưa nắm được tổng thể về tài sản nhà nước, công tác hạch toán chưa đầy đủ, thống nhất, chưa gắn quản lý về giá trị với quản lý về hiện vật... Các đại biểu cho rằng, để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quản lý, sử dụng tài sản công, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng trong đầu tư xây dựng, mua sắm, sử dụng, xử lý tài sản; đồng thời, cụ thể hóa phạm vi tài sản công theo Điều 53 Hiến pháp, quy định chế độ quản lý, sử dụng và xác định vai trò của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với tài sản công, tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, việc ban hành Luật mới để thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước hiện hành là cần thiết.
Về tên gọi của dự thảo luật:Đồng tình với tên gọi như dự thảo Chính phủ trình, đại biểu Lê Thị Yến - Uỷ viên thường trực Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Phú Thọ đề nghị sửa lại tên luật là: “Luật Quản lý, sử dụng tài sản công” để bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định tại Điều 53 của Hiến pháp.
Về giải thích từ ngữ (Điều 3):Dự thảo quy định, Tài sản công là tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: Tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản công phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; tài sản được xác lập quyền sở hữu thuộc về Nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác. Liên quan đến nội dung này, nhiều ĐBQH trong Tổ cho rằng, việc giải thích như trên chưa làm rõ nghĩa đối với quy định về Tài sản công, chưa cụ thể được Điều 53 của Hiến pháp.
Về nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản công (Điều 6):Các ý kiến cho rằng, nội dung thể hiện tại Điều 6 là nguyên tắc để xây dựng, điều chỉnh nhiều nội dung tại dự luật, do vậy Ban soạn thảo cần nghiên cứu lại nội dung về nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản công. Theo đó, nên xây dựng nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản công cho các mục đích cụ thể như sau: (1) Tài sản phục vụ hoạt động quản lý nhà nước phải sử dụng, khai thác đúng mục đích, tiêu chuẩn và tiết kiệm; (2) tài sản cung cấp dịch vụ công thực hiện nguyên tắc của Luật Phí và lệ phí; (3) tài sản để kinh doanh phải thực hiện theo cơ chế thị trường, bù đắp được chi phí và đảm bảo được lợi ích của Nhà nước.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Điều 14):Qua thảo luận, một số đại biểu cho rằng, không nên quy định Chính phủ giao Thủ tướng Chính phủ một số nhiệm vụ cụ thể tại Khoản 7, mà tách thành 01 điều riêng. Đồng tình quan điểm này, đại biểu Lê Thị Yến đề nghị Ban soạn thảo nên có một điều riêng quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng.
Về khoán kinh phí sử dụng tài sản công (Điều 33): Có ý kiến cho rằng, tại khoản 3 Điều 33 của Dự thảo luật giao Bộ trưởng Bộ Tài chính thẩm quyền quy định việc xác định mức khoán kinh phí sử dụng tài sản công. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc khoán và mức khoán kinh phí đối với các ĐBQH chuyên trách ở Trung ương và một số cơ quan của Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc quy định. Do đó, đề nghị Chính phủ nghiên cứu, rà soát điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và hệ thống pháp luật.
Về điều chuyển tài sản công (Điều 42): Một số ý kiến cho rằng, trong trường hợp điều chuyển tài sản công giữa các cơ quan nhà nước, tài sản công phải được cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi tài sản tại cơ quan điều chuyển, sau đó cấp lại cho các cơ quan nhận điều chuyển, thay vì việc điều chuyển chỉ được thực hiện giữa các cơ quan có tài sản điều chuyển và cơ quan nhận tài sản điều chuyển như quy định tại Dự thảo luật. Bên cạnh đó, cần xác định rõ giá trị còn lại của tài sản công được điều chuyển là giá trị sổ sách hay giá trị thực tế.
Về hệ thống thông tin về tài sản công và cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công (Chương VIII): Nhiều ý kiến thống nhất với quy định về hệ thống thông tin về tài sản công và cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công trong Dự thảo luật. Việc xây dựng, vận hành hệ thống thông tin sẽ góp phần tạo lập kênh cung cấp thông tin tổng hợp quan trọng về tài sản công, đặc biệt là tổng nguồn lực tài sản công, làm cơ sở để các cơ quan nhà nước trong quá trình điều hành vĩ mô, điều hành ngân sách nhà nước, phục vụ Chính phủ điện tử. Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện quyền giám sát của người dân, đề nghị cần bổ sung quy định về công khai, minh bạch thông tin về tài sản công (trừ những thông tin theo quy định về bí mật nhà nước) trên Cổng thông tin điện tử. Liên quan đến việc công khai trên Cổng thông tin điện tử, đại biểu Lê Thị Yến đề nghị cần làm rõ và cho biết Cổng thông tin điện tử ở đây là cổng nào của cơ quan nào để thuận tiện cho quá trình thực hiện.
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công quy định về quản lý nhà nước đối với tài sản công; chế độ quản lý, sử dụng tài sản công; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng tài sản công.
Nguồn Cổng GTĐT