Đối với dự án Luật Du lịch: Luật Du lịch được Quốc khóa XI, Kỳ họp thứ Bảy thông qua ngày 14/6/2005 (gọi tắt là Luật Du lịch 2005), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh Du lịch năm 1999.So với Luật Du lịch hiện hành, phạm vi sửa đổi Luật lần này cơ bản và toàn diện. Dự luật đã bổ sung, điều chỉnh các hành vi mới phát sinh trong thực tiễn mà Luật Du lịch 2005 chưa có quy định như: Về hướng dẫn du lịch, cơ sở lưu trú du lịch (tàu thủy lưu trú du lịch)... Vì vậy, các đại biểu nhất trívới sự cần thiết sửa đổi Luật Du lịch để tiếp tục thể chế hóa đường lối của Đảng về phát triển du lịch; cụ thể hóa tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013; nội luật hóa các Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hànhlàm cơ sở thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững.
Về chính sách phát triển du lịch (Điều 5): Thống nhất với quy định “Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi nguồn lực, tăng đầu tư phát triển du lịch để đảm bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”nhằm khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của du lịch với tư cách là một ngành kinh tế mũi nhọn theo chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng. Tuy nhiên, đại biểu Bùi Minh Châu - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh cho rằng, dự thảo luật chưa có tính đột phát, du lịch của Việt Nam không phát triển bằng các nước láng giềng (Lào, Campuchia); Đại biểu đề nghị Chính phủ cần xác định rõ nguyên nhân qua đó có các giải pháp phù hợp. Liên quan đến nội dung này, đại biểu Hoàng Quang Hàm - Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Phú Thọ cho rằng, chính sách phát triển du lịch quy định tại Điều 5 còn chung chung, chưa đưa ra được những chính sách đặc thù mang tính đột phá để đảm bảo cho du lịch phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét, có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn đảm bảo cho du lịch phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Về quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (Điều 6): Các đại biểu đồng tình với quan điểm về thành lập quỹ hỗ trợ phát triển du lịch và có một điều riêng quy định nội dung này như tại dự luật. Điều này sẽ tạo căn cứ pháp lý để thành lập và tạo nguồn thu hình thành quỹ, giải quyết nguyên nhân cơ bản khiến quỹ hỗ trợ phát triển du lịch dù đã được quy định trong Luật Du lịch 2005 nhưng sau 10 năm vẫn chưa thể thành lập. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị làm rõ và cụ thể hơn việc hỗ trợ ban đầu từ ngân sách Nhà nước, nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước và thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch năm 2016.
Về Hướng dẫn viên du lịch (Điều 51): Hiện nay, chúng ta có hướng dẫn viên quốc tế và hướng dẫn viên nội địa tham gia quảng bá, giới thiệu về hình ảnh, đất nước con người Việt Nam; quy định này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế về phân loại hướng dẫn viên. Tuy nhiên, dự thảo luật đã loại bỏ quy định này và phân loại hướng dẫn viên gồm hướng dẫn viên theo chương trình du lịch và hướng dẫn viên tại điểm. Đại biểu Hoàng Quang Hàm đề nghị cần có sự phân loại và quy định rõ hơn về hướng dẫn viên quốc tế và hướng dẫn viên nội địa.
Đối với dự án Luật Thủy lợi: Luật Thủy lợiquy định về hoạt động thủy lợi; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thủy lợi, quản lý nhà nước về thủy lợi.
Về nguyên tắc hoạt động thủy lợi (Điều 4): Hoạt động thủy lợi chịu ảnh hưởng trực tiếp của trữ lượng nước trong tự nhiên, tác động của thời tiết, thiên tai, biến đổi khí hậu và hoạt động sử dụng nước của các ngành kinh tế - kỹ thuật. Do vậy, trong bối cảnh nhu cầu dùng nước ngày càng tăng, diễn biến bất lợi của thời tiết và thiên tai thì ngoài các nguyên tắc đề cập trong Điều 4 của dự thảo Luật, các đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung một số nguyên tắc như: Việc khai thác công trình thủy lợi phải bảo đảm đồng bộ, sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm; bảo đảm cấp, tiêu thoát nước cho các yêu cầu thiết yếu của con người trong điều kiện bất lợi của khí hậu và thời tiết; bảo đảm an toàn tính mạng của người dân trong xây dựng, khai thác công trình thủy lợi.
Về chính sách trong hoạt động thủy lợi (Điều 5): Đa số các ý kiến tán thành với các chính sách quy định tại Điều 5 của dự thảo Luật. Tuy nhiên, để phát triển thủy lợi, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, các đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung chính sách: Tổ chức, cá nhân đầu tư các công trình thủy lợi đấu nối với hệ thống dẫn nước chính ở địa bàn KT-XH khó khăn; miễn giảm, trợ giá dịch vụ thủy lợi cho một số đối tượng ưu tiên, hoạt động ưu tiên như cấp nước sinh hoạt, tiêu thoát nước… Ngoài ra, cần rà soát một số các chính sách như: Hỗ trợ chuyển giao công trình thủy lợi, hoặc chuyển giao quyền quản lý, khai thác công trình thủy lợi do nhà nước đầu tư cho tổ chức, cá nhân; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng, quản lý khai thác công trình thủy lợi theo hình thức đối tác công tư cho phù hợp với quy định của Luật Đầu tư và Luật Đầu tư công.
Về vận hành công trình thủy lợi trong trường hợp lũ, lụt, ngập úng và hạn hán, xâm nhập mặn (Điều 27): Các đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát bao quát hết các hiện tượng thiên tai quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống thiên tai; cân nhắc đối với vận hành công trình thủy điện để tránh trùng lặp; xem xét về tính khả thi của quy định này vì nhiều công trình hiện nay xuống cấp, trang thiết bị, cơ sở vật chất hạn chế, thiếu cán bộ kỹ thuật nên công tác quản lý, vận hành chưa đáp ứng yêu cầu.
Về vận hành đập (Điều 28): Đa số ý kiến đề nghị xem lại quy định việc lập quy trình vận hành công trình thủy lợi tại khoản 3 Điều 25 và khoản 3 Điều 28 để tránh chồng chéo về thẩm quyền; khoản 1 Điều 28 bổ sung quy định: Ngoài việc phải báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thì chủ đập, đơn vị quản lý đập còn phải báo cáo với Ban chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn nhằm kịp thời ứng phó thiên tai, tổ chức tìm kiếm cứu nạn phù hợp với các quy định của pháp luật về phòng, chống thiên tai.
Về dịch vụ thủy lợi: Nhất trí với quan điểm chuyển đổi cơ chế từ thu “thủy lợi phí” sang “giá dịch vụ thủy lợi” để bảo đảm hiệu quả khai thác, sử dụng nước, giảm gánh nặng bao cấp từ ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng công trình thủy lợi. Việc tính giá dịch vụ thủy lợi góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả công trình thủy lợi, khuyến khích việc sử dụng nước tiết kiệm. Đại biểu Bùi Minh Châu cho biết, người nông dân không thuộc đối tượng được cấp bù thủy lợi phí theo Nghị định 67/2012/NĐ-CP ngày 10/9/2012 của Chính phủ và họ sử dụng nguồn nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp không nhiều. Việc cấp bù thủy lợi phí thực hiện như hiện nay là không phù hợp, vì vậy đại biểu đề nghị nên thực hiện như quy định trong dự thảo luật; Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ lưỡng giá dịch vụ để việc tính phí đảm bảo.
Nguồn Cổng GTĐT